Bạn đã từng nghe về những câu chuyện kỳ lạ về vùng đất Tây Nguyên Đắc Lắc chưa? Người dân sống dưới nhà sàn, nuôi gia súc ở dưới nền nhà, con gái mặc váy, con trai thì đóng khố, đi học bằng voi, thú cưng là heo rừng? Đến trường thay vì có nhà để xe cho học sinh thì có gara cho voi. Nghe rất thú vị đúng không nào? Cùng mình tìm hiểu về vùng đất kì lạ này dưới góc nhìn của một cô bé ngoài tỉnh như mình nhé.
1. Đi đâu cũng thấy bướm bay ngợp trời
Tôi lên Buôn Mê vào dịp tháng tư vừa rồi, và đến giờ vẫn còn nhớ những ấn tượng đầu tiên khi bước chân lên vùng đất cà phê này, theo chân tôi là từng đàn bướm bay ngợp trời khiến mình ngẩn ngơ theo. Hàng trăm ngàn con bướm nhỏ hội tụ tạo nên bức tranh phong cảnh đẹp một cách ngoạn mục. Tuy nhiên bướm ở đây đa phần là bướm xanh hoặc vàng nhạt, hòa chung với màu cây, cỏ rất khó nhận biết. Và bướm chỉ xuất hiện trong khoảng một thời gian ngắn, khi hoa cà phê đã tàn và đậu trái.
Ảnh: Lê Dư
Ảnh: Lê Dư
Ảnh: Lê Dư
Ảnh: Lê Dư
2. Di chuyển bằng voi?
Lúc còn ngồi trên ghế nhà trường, khi nhìn thấy những tấm ảnh này, tôi luôn nghĩ rằng người dân Buôn Mê di chuyển chủ yếu bằng voi. Đến lúc vô đại học, một số bạn ở Đắc Lắc còn kể cho tôi nghe về những chuyến đi trên lưng voi rất thú vị, khiến tôi vô cùng háo hức và chỉ muốn lên Buôn Mê. Tôi đã tin điều đó cho đến khi bước chân lên đây...
Thực tế, bạn sẽ khó có thể tìm thấy những chú voi trên đường, voi thường tập trung ở những khu du lịch như Buôn Đôn( Bản Đôn). Đến đây bạn sẽ được trải nghiệm cưỡi voi vượt sông Sêrepok. Tuy nhiên do cường độ làm việc và nặng và không được chăm sóc đúng cách nên có rất nhiều chú voi bị ốm và không qua khỏi. Đó là điều khiến ai cũng đau lòng.
3. Thú cưng là heo rừng
Lần đầu tiên mình đến Buôn Ma Thuột, điều khiến mình ngạc nhiên và thích thú nhất chính là nhìn thấy những chú heo rừng có thể tung tăng ngoài đường phố, chú heo ủn ủn, vừa mập vừa đen nhìn vui vui, mà đặc biệt là dường như những chú ấy đang dong chơi như những chú cún bạn thường thấy ở những nơi khác.
Heo mọi chạy lon ton khắp các con hẻm trong thành phố.
4. Từ nhà mặt tiền vô trong buôn làng đều có đánh số nhà
Có một điểm đặc biệt là dường như tất cả các nhà ở đây đều được đánh số, từ thành phố cho tới trong buôn làng, ngay cả những ngôi nhà sàn sâu trong buôn vẫn được đánh số. Tuy nhiên theo kinh nghiệm của mình thì đánh số hơi bị khó hiểu và khó tìm, tốt nhất là biết tên chủ nhà thì nhanh hơn nhiều.
Tất cả các nhà sàn ở đây đều có địa chỉ rõ ràng.
Ảnh: bmt47.com
Ảnh: bmt47.com
5. Các lễ hội đặc sắc chỉ có ở đây
*** Lễ đâm trâu của người Bana
Vào khoảng tháng Chạp đến tháng 3 âm lịch, người Banar ở Tây Nguyên lại mở lễ hội đâm trâu, gọi là Koh Kpo hoặc Groong Kpo Tonơi, để vui đón năm mới, mừng sức khỏe mọi người và cầu chúc mùa màng tươi tốt.
Theo tục lệ của dân Banar, Jrai, hàng năm dân làng tổ chức một lần hội đâm trâu tại nhà rông, mọi phí tổn trong ngày hội do dân làng đóng góp lại. Người chủ trì ngày hội là già làng, đứng gần cột buộc trâu. Thanh niên nam nữ đáng chiêng, cồng, múa đứng sau lưng già làng. Những thanh niên có nhiệm vụ đánh trống, chiêng, cồng trong ngày hội, đầu chít khăn đỏ, mặc áo (loại áo ngày lễ dành cho con trai), đóng khố. Nữ thanh niên mặc áo phia, váy koteh (loại áo, mặc ngày hội của con gái). Các già làng và trai tráng chọn bãi đất rộng, bằng phẳng, không xa buôn làng để mời thần linh về chứng kiến. Gưng gồm cây nêu, cột buộc trâu và các cột để trang trí. Cây nêu bằng tre vút thẳng dựng ở giữa. Một cột chính bằng cây Pleng hay cây Xmuôn chôn vững để buộc trâu. Quanh cây nêu người ta trồng từ 4 – 8 trụ gỗ tròn cao 2 – 3 mét, đường kính già nửa gang tay, kẻ trang trí các khoang với gam màu mạnh như xanh, đỏ, đen, trăng. Các trụ gỗ bố trí khoảng cách đều nhau theo hình hoa thị đối xứng, trên buộc nối các đoạn dây rừng tạo thề liên hoàn, vững chắc. Trên ngọn nêu có những thanh ngang tỏa ra 4 phía, mỗi đầu thanh có vòng tre như mặt trời. Những đoãn dây tết, những tam giác đan bằng lạt tre, những chùm ống chiên gió… lủng lẳng dưới các vòng mặt trời. Trên cao nữa, gần chỗ túi thiêng tượng trưng cho trí tuệ và sức mạnh là hình ảnh cách điệu của chim Kring (đại bàng) tượng trưng cho sứ giả của hạnh phúc.
Lễ hội diễn ra trong 3 ngày đêm. Vị tộc trưởng, thầy cúng hoặc già làng làm chủ lễ hiến tế. Hết ngày thứ nhất, sang ngày thứ hai, một dàn chiêng 8, 10, 12 chiêng đồng tấu lên giai điệu trầm hùng cùng với trống lớn Bnưng. Những trai tráng trong làng cởi trần, đóng khố, tay cầm gậy múa Kơ-tếch, giành riêng cho lễ hội đâm trâu. Những thanh niên khoẻ mạnh, đầu chít khăn đỏ, tay cầm chiên gươm sáng loáng lao ra, vừa múa vũ khí, vừa đi vòng tròn để lừa dịp đâm trâu.
Sau cuộc nhảy múa, họ bắt đầu đâm trâu. Khi con trâu đã tắt thở, thầy cùng mang chiên nồi đồng nhỏ đến hứng huyết trâu hòa với rượu, bộ phận đao kiếm tiếp tục xẻ thịt trâu, làm thịt trâu xong, họ chia đều cho từng bếp trong buôn làng. Một phần thịt trâu sẽ được dành lại để uống rượu chung tại nhà rông.Thịt trâu được xẻ ra, chia đều cho các bếp trong buôn.Thịt trâu cùng Giàng bày riêng thành 5 nhóm trên bàn thờ và được vẩu rượu tiết trâu. Buồng gan trâu được chia nhỏ cho trai làng ăn để tăng thêm sức mạnh. Cuộc vui mùa hát vẫn tiếp tục quanh đống lửa. Người già thì uống rượu, hát H’mon, trai gái chưa vợ, chưa chồng tìm đến nhau, nhảy múa cho đến khi tàn ngọn lửa, đến lúc mặt trời mọc…Những ngày ở lễ hội đâm trâu, cũng là những ngày hội của nghệ thuật cồng chiêng, vì nhiều nhà đem bộ cồng chiêng của mình tới tham dự. Lễ hội đâm trâu như bảo tàng sống động về nét văn hóa dân gian của người Banar, làm phong phú thêm sắc thái văn hóa của dân tộc Việt Nam.
*** Lễ cưới cho voi của dân tộc M’nông
Người M’nông không thích cho voi đẻ, có lẻ vì trước đây voi con có sẵn trong rừng, chỉ cần đi săn bắt về thuần dưỡng. Cho nên việc voi đực và voi cái “quan hệ” với nhau có con phải kiêng cữ, là vi phạm luật. Nếu chúng đã lỡ với nhau rồi thì chủ voi phải làm lễ cho voi.
Khi biết con voi cái của mình có mang, chủ voi mang một tô gạo, một cây đèn cầy và một cây kreo (dùi mốc) đến nhà voi đực trình bày. Sau khi bàn bạc, hai bên lượng tình thông cảm với nhau và thống nhất tiến hành “lễ cưới”. Chủ voi đực mang một lợn, một chóe rượu, một tô gạo, một cây đèn cầy và một cây kreo đến nhà chủ voi cái để xin cưới. Hai nhà giết heo, lấy huyết heo hòa nước rượu đầu phết vào bàn thờ (kuất), đá bếp, cột nhà và cửa ra vào, báo cho tổ tiên ông bà, thần đá bếp, đến uống rượu ăn thịt, phù hộ cho gia đình, đừng để cho ma xấu lợi dụng làm hại buôn làng. Sau đó hai chủ voi vừa phết huyết heo vào ché rượu vừa khấn vái, cầu chúc cho đôi voi và mọi người bình yên, hạnh phúc. Lễ nghi này tiến hành xong thì chủ voi cái mang cơm nếp đến nhà chủ voi đực làm một lễ cúng khác. Hôn lễ cử hành giống như ở nhà voi cái.
*** Lễ hội cồng chiêng
6. Nhà nào cũng có Lục Bình